Qua việc tham khảo Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, các em sẽ cảm thu được hiện thực khó khăn, khắc nghiệt của cuộc sống sinh hoạt của những người lính Tây Tiến nơi rừng thiêng nước độc, qua đó làm nổi trội lên ý thức sáng sủa, yêu đời và nét hào hoa lãng mạn đầy chất lính của họ.
Mục Lục bài viết:
1. Dàn ý cụ thể
2. Bài mẫu số 1
3. Bài mẫu số 2
4. Bài mẫu số 3
5. Bài mẫu số 4
6. Bài mẫu số 5
Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
I. Dàn ý Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
1. Mở bài:
– Giới thiệu về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến
– Dẫn dắt vào vấn đề cần phân tích và trích dẫn đoạn thơ trên
>> Tham khảo thêm nhiều cách viết mở bài bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng tại đây
2. Thân bài:
– Nói chung chung:
+ Hoàn cảnh sáng tác: là bài thơ sau lúc tác giả rời xa đơn vị cũ, cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến và viết nên bài thơ Tây Tiến.
+ Nội dung bài thơ: Là nỗi nhớ về chiến trường, về con người, về tự nhiên Tây Bắc bằng cả tấm chân tình của chính tác giả
+ Vị trí đoạn trích: Là đoạn thơ thứ ba trong mạch xúc cảm của toàn bài thơ
+ Nội dung đoạn trích: Chân dung người lính Tây Tiến với sự hi sinh bi tráng của họ
– Những nội dung cần phân tích:
+ Chân dung: Những cụ thể tả thực đã khắc họa dung mạo rất lạ mắt, đồng thời phản ánh hiện thực gian truân, thiếu thốn, bệnh tật nơi chiến trường. Tác giả ko hề tránh né hiện thực, và điều đó trình bày tấm lòng yêu nước, căm thù giặc mãnh liệt của người lính Tây Tiến
+ Tâm hồn hào hoa, lãng mạn, và kiêu hùng: Qua các ngôn từ thơ “dữ oai hùm”, “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” ta thấy được khí thế và quyết tâm của người lính Tây Tiến
+ Lí tưởng cao đẹp: Ko trốn tránh hiện thực “Áo bào thay chiếu anh về đất”, tác giả đã khắc họa sự hi sinh của người lính một cách thanh thản, thầm lặng và cao cả, gây xúc động lòng người, lay động tự nhiên
– Nghệ thuật: Văn pháp tả thực khắc họa chân dung người lính với hiện thực gian truân nơi chiến trường; dùng từ Hán – Việt cổ xưa để tăng thêm sự thành kính, trân trọng với người đã khuất; nói giảm để trình bày lí tưởng cao đẹp của người chiến sĩ trong đấu tranh, khắc họa sự hi sinh, nhấn mạnh sự mất mát nơi chiến trường
– Nhận xét: Với giọng thơ trang trọng, đôi lúc lắng xuống, xúc cảm dạt dào, hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp bi tráng, tạc vào lòng người như bức tượng đài bất tử về người lính ko thể nào quên.
3. Kết bài:
– Khẳng định, thẩm định về những câu thơ trên
– Mở rộng vấn đề: nêu suy nghĩ, cảm nhận của tư nhân về hình ảnh người lính Tây Tiến được trình bày qua đoạn thơ trên.
II. Bài văn mẫu Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
1. Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, bài mẫu số 1:
Có thể nói, nếu chọn năm tác giả tiêu biểu của thời đoạn văn học thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, có thể ko có Quang Dũng nhưng nếu chọn năm bài thơ tiêu biểu, nhất mực Tây Tiến phải được nhắc tên, đứng ở hàng danh dự. Đọc Tây Tiến, chúng ta sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử, chúng ta có thể quên một số câu thơ trong bài, nhưng ko thể quên được hình ảnh đoàn quân đó:
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành!
Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp – nói tới gian truân, hi sinh và địa bàn hoạt động – thì ở đây, đoàn quân đó đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rành mạch. Đã thành khuôn sáo lúc nói đến tới sự can trường của các chiến binh. Ở đây, ta tưởng như gặp một mô-típ như thế:
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng
Nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực – thực một cách trần truồng: chiến sĩ Tây Tiến hồi đó hoạt động ở những vùng núi rừng hiểm trở, rừng thiêng nước độc, chết trận thì ít nhưng mà chết vì bệnh tật thì nhiều, có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. “Quân xanh” ở đây có thể hiểu là xanh màu áo, xanh lá ngụy trang và xanh làn da vì thiếu máu. Những hình ảnh rất thực đó, vào bài thơ, với giọng điệu và cách diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách. Mười bốn chữ thơ nhưng mà chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, lạ mắt, không tiền khoáng hậu trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở “xếp bút nghiên lên đường chinh chiến” của các chàng trai Hà Nội kiêu hùng, hào hoa.
Vì vậy, khó khăn, gian truân là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn ko nguôi đi những tình cảm lãng mạn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
“Mộng” và “mơ” cùa người lính được gửi về hai phương trời: biên giới, nơi còn đầy bóng giặc – mộng làm thịt giặc lập công, và Hà Nội, quê hương dấu yêu – mơ những bóng vía thân yêu. “Dáng kiều thơm”, đó là vầng sáng lung linh trong kí ức, “tố cáo” nét đa tình của người lính. Nhưng với các chiến sĩ Tây Tiến, nỗi nhớ đó là sự thăng bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng hành quân vất vả, chứ ko phải để thối chí nản lòng. Vậy nhưng mà một thời, câu thơ “đẹp một cách lãng mạn” này đã làm cho tác giả của nó và chính bài thơ phải “trải bao gió dập, sóng dồn”.
Bài văn Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Kim cổ chinh chiến kỉ nhân hồi – xưa nay đi trận mạc, mấy người nào trở về, các chiến sĩ Tây Tiến cũng ko khỏi tránh phải những mất mát, hi sinh.
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Sau những câu thơ rắn rỏi, xinh tươi, tới đây, âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống để độc giả thấy rõ hơn thực chất của sự việc. Hình như đây là một cảnh phim được cố ý quay chậm. Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, chấp nhận gian truân của người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao ngôi “mồ viễn xứ” của những người con “chết xa nhà”. Nhưng các chiến sĩ ta nhìn thấy với đôi mắt mặc nhiên, bởi họ đã chấp nhận điều đó. Một trong những động cơ thôi thúc họ lên đường là hình ảnh người người hùng da ngựa bọc thây nhưng mà họ tiếp thu được trong văn học sách vở. Một niềm say mê trong sáng pha chút lãng mạn.
Hai câu thơ cuối tiếp tục âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là một cái chết cao đẹp – cái chết bất tử của người lính Tây Tiến.
Áo bào thay chiếu anh về đất.
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ mô tả, thông báo tầm thường nhưng sức gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi nhưng mà cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể thờ ơ trước cảnh “anh về đất”? “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ vinh quang của mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của nòi.
Trước đây, lúc nhắc tới những dòng thơ này, người ta chỉ thấy những biểu lộ nào là “mộng rớt”, “buồn rơi” … nhưng thời kì đã khiến chúng ta nhìn đúng hơn vào thực chất, có thời đại đó mới có văn học đó.
Tây Tiến là bài thơ, là tấm lòng của những người chiến binh Tây Tiến. Bài thơ có nhạc, họa; kế bên cái bi là cái hùng, kế bên mất mát, đau thương là niềm tự hào người hùng. Nửa thế kỉ đã qua, bài thơ ngày một thêm sáng giá và đoạn thơ khắc họa đoàn quân Tây Tiến đã trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử hào hùng trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
—————————-HẾT BÀI 1—————————–
Để hiểu rõ hơn về bài thơ Tây Tiến cũng như các yếu tố bi tráng, hào hùng, lãng mạn trong bài thơ, các em học trò có thể tham khảo các đề văn phân tích Tây Tiến khác như: Phân tích vẻ đẹp hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến, Phân tích thành ngữ Thi trung hữu họa qua bài thơ Tây Tiến, Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến, So sánh Đồng Chí với Tây Tiến,…
2. Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, bài mẫu số 2:
Trên nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng và duyên dáng thơ mộng, mỹ lệ của Tây Bắc, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng tập thể những người lính Tây tiến với một vẻ đẹp đầy tính chất bi tráng:
“Tây tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm”
Như ở trên đã thấy, cách tả cảnh của Quang Dũng đã lạ nhưng mà tới đây, cách tả người càng lạ hơn. Thơ ca thời kháng chiến lúc viết về người lính thường nói tới căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí” đã trực tiếp mô tả căn bệnh đó:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
Còn ở đây,nhắc tới hình ảnh “Đoàn binh ko mọc tóc”,tác giả đã gợi lại hình ảnh anh “vệ trọc” một thời. Những câu thơ còn có ý tả thực về một hiện thực trần truồng và khắc nghiệt: những con suối độc,những trận sốt rét rừng đã làm cho người lính xanh xao, rụng tóc.Hình ảnh lạ thường nhưng ko hề quái gở.Người lính dù có tiều tụy nhưng vẫn ngời lên một phẩm chất xinh tươi, kiêu hùng: “ko mọc tóc” chứ ko phải là “tóc ko mọc”. “Ko mọc tóc” có vẻ như là ko thèm mọc tóc, ko cần mọc tóc… trình bày thái độ khinh thường nguy nan, vượt lên hoàn cảnh của người lính Tây tiến.
Bài văn Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng đầy đủ
Ba tiếng “Dữ oai hùm” đặt cuối câu giống như tiếng dằn rất mạnh, khẳng định ý chí ngút trời, ý thức đấu tranh sục sôi của người lính. Câu thơ giống như cái hất đầu đầy tự hào, ngạo nghễ người lính Tây Tiến thử thách gian truân, thắng lợi gian truân, trở thành người người hùng. Trong bài thơ có một cái tên thành thị, nguy nga: Hà Nội, nhưng đó ko phải là một cái mốc có thật trên đường Tây Tiến nhưng mà ở đây trở thành một mốc có thật trên đường Tây Tiến nhưng mà ở đây trở thành một mốc của độ cao bởi giấc mơ kia chính là một đỉnh điểm. Câu thơ diễn tả tinh tế sống động tâm lý của những người lính ra đi từ thủ đô. Hình ảnh Hà Nội và dáng kiều thơm hiện về trong đêm mơ ko làm cho họ nản lòng, thối chí nhưng mà trái lại là nguồn động viên, động viên đối với các chiến sĩ. Một thoáng kỉ niệm êm đềm trong sáng đó đã tiếp sức cho họ trong trận đấu đấu gian nan. Nó là động lực ý thức giúp người lính băng qua những tháng ngày chiến tranh gian lao của đời mình.
Bốn câu thơ tiếp theo, tác giả nhìn thẳng vào cái bi nhưng đem lại cho nó một vẻ hào hùng lẫm liệt và sang trọng:
“Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Những từ Hán Việt cổ xưa trang trọng “biên giới”,”viễn xứ” đã làm cho những nấm mồ chiến sĩ được vùi lấp vội vã nơi rừng hoang biên giới cũng trở thành những nấm mồ chí tôn nghiêm. Cái bi của câu trên được câu dưới nâng lên thành bi tráng bởi tư cách của người đã chết “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Đời xanh tuổi xanh biết bao nhiêu là hoa mộng nhưng họ vui vẻ hiến dâng cho tổ quốc. Họ đi vào cái chết như đi vào một giấc ngủ nhẹ nhõm và thanh thản vô cùng. Nếu người tráng sĩ ngày xưa với hình ảnh “da ngựa bọc thây” đầy vinh quang thì người lính tây tiến với hình ảnh “áo bào thay chiếu” đấy sức mạnh ngợi ca. Thực tiễn, những người lính gục chết trên trận mạc nhiều lúc manh chiếu cũng ko có, huống chi là “áo bào”. Nhưng thái độ trân trọng, mến thương cùng cảm hứng lãng mạn đã tạo ra ở Quang Dũng một cái nhìn của chủ nghĩa người hùng cổ điển trước cái chết của người lính. Trong cách nhìn đó, cái chết của người lính Tây tiến ko chìm trong cái lạnh lẽo như trong thơ của Đặng Trần Côn:”Hồn tử sĩ gió ù ù thổi” nhưng mà được bao bọc trong một âm hưởng hùng tráng:”Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Câu thơ vẻ vang như một khúc nhạc kì vĩ. Âm hưởng bi tráng của khúc chiêu gồn tử sĩ dội lên từ chữ “gầm”. Tự nhiên đã tấu lên khúc nhạc dữ dội, oai hùng của nó, vừa là để tống biệt hồn người chiến sĩ về nơi vĩnh hằng, vừa nâng cái chết lên tầm sử thi hoành tráng. Các anh ra đi và lại trở về với đất mẹ, về với những người người hùng dân tộc đã ngã xuống, là tiếp nối truyền thống ông cha. Và phải chăng tiếng gầm của dòng sông Mã cũng chính là tiếng lòng của người còn sống? Bởi cái chết của đồng chí ko làm họ chùn bước nhưng mà chỉ làm tăng thêm lòng quả cảm và chí căm thù.
3. Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, bài mẫu số 3:
Quang Dũng (1921 – 1988) là nghệ sĩ đa tài, có hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc trưng lúc ông viết về những người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. Trong các sáng tác của ông thì Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu cho đời thơ, phong cách sáng tác của ông. Bài thơ được viết bằng văn pháp lãng mạn, sự thông minh về hình ảnh, tiếng nói, giọng điệu đã bộc lộ một nỗi nhớ thâm thúy da diết của tác giả về những người lính Tây Tiến quả cảm hào hoa và núi rừng miền Tây hùng vĩ, mĩ lệ. Có thể nói, nỗi nhớ da diết những người đồng chí Tây Tiến của Quang Dũng được lắng đọng trong tám câu thơ khắc họa bức chân dung người lính Tây Tiến:
“Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Bài thơ Tây Tiến được in trong tập thơ “Mây đầu ô” (xuất bản năm 1986) nhưng trước đó đã được bao thế hệ người yêu thơ truyền tay tìm đọc. Tác giả sáng tác bài thơ này từ năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh lúc ông đã rời khỏi đoàn quân Tây Tiến chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác. Đơn vị quân đội Tây Tiến được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với quân nhân Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh mất dần sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng; chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, có nhiều học trò, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. Họ sống và đấu tranh trong hoàn cảnh gian truân, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn sáng sủa và đấu tranh quả cảm. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Lúc đầu, thi sĩ đặt tên tác phẩm là Nhớ Tây Tiến, nhưng sau đó lại đổi lại là Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác dựa trên nỗi nhớ, hồi ức, kỉ niệm của Quang Dũng về đơn vị cũ. Thế nên toàn bài thơ là một nỗi nhớ cồn cào, tha thiết.
Bài thơ được tác giả phân thành 4 đoạn. Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành quân gian truân của đoàn quân Tây Tiến và quang cảnh tự nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội, hoang vu. Đoạn 2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng. Đoạn 3 tái tạo lại chân dung người lính Tây Tiến. Đoạn 4 là lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây. Toàn bài thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm hồn đó, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh tự nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mĩ lệ.
Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng ko chỉ nhớ núi rừng nhưng mà còn nhớ những người đồng chí cùng trèo đèo lội suối, vượt qua vô vàn thử thách, vào sinh ra tử. Thi sĩ đã hồi ức và vẽ lại bức chân dung của họ với vẻ đẹp đậm chất bi tráng. Quang Dũng đã lựa chọn những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể, nói chung được gương mặt chung của cả đoàn quân.
Người lính đó phải sống trong điều kiện sinh hoạt, đấu tranh thiếu thốn nên:
“Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến hay nhất
Hai câu thơ đã nói đến tới một hiện thực, đó là căn bệnh sốt rét hiểm nghèo nhưng mà người lính thường mắc phải. Thi sĩ Chính Hữu trong bài Đồng chí cũng nói đến tới căn bệnh này: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh-Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Quang Dũng trong bài thơ cũng ko che giấu những gian truân, khó khăn, căn bệnh quái ác đó và sự hi sinh lớn lao của người lính tây tiến, nhưng hiện thực nghiệt ngã đó lại được nhìn qua một tâm hồn lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để thuận tiện cho việc đánh giáp lá cà, những mái đầu bị rụng tóc, vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính qua cái nhìn của Quang Dũng lại trở thành uy phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn rừng thiêng.
Những người lính đó một mặt đầy oai hùng, một mặt lại rộn rực tình mến thương:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Các chàng trai Tây Tiến với đôi mắt thao thức “trừng” lên quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ nhưng trái tim vẫn để dành chỗ cho những dáng kiều thơm chốn Hà thành, những người em, những người bạn gái thân yêu quê nhà. Quang Dũng với cái nhìn nhiều chiều, đã khắc hoạ chân dung người lính ko chỉ ở dáng vẻ bên ngoài nhưng mà còn trình bày được toàn cầu nội tâm, tâm hồn mộng mơ lãng mạn, phong phú của họ.
Trong chiến tranh, mất mát hi sinh là ko tránh khỏi. Quang Dũng đã nêu lên hiện thực này ko che giấu theo cách riêng của ông:
“Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Những từ Hán Việt cổ xưa, trang trọng: “biên giới”, “mồ”, “viễn xứ”, “chiến trường” liên kết với từ láy “tản mạn” đã làm giảm nhẹ yếu tố bi thương, làm những đau thương vì mất mát lắng xuống. Điều nổi trội lên là vẻ đẹp lãng mạn của lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến. Cách nói “chẳng tiếc đời xanh” vang lên khí khái khẳng định vẻ đẹp hào hùng của các chàng trai Tây Tiến.
Hai câu thơ:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nhắc tới một sự thực bi thương: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành quân đấu tranh ko có tới cả manh chiếu bó thân, qua cái nhìn của Quang Dũng lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng mang dáng dấp của những tráng sĩ oai hùng thuở xưa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cách nói giảm “anh về đất” làm v đi cái bi thương, rồi cái bi đó bị lấn lướt hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của sông Mã. Quang Dũng đã mượn âm thanh của dòng sông, của tự nhiên, của hồn thiêng Tây Bắc để nói lời từ biệt, lời hàm ân ngợi ca đồng chí. Câu thơ mang âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng làm cho sự hi sinh của người lính ko hề bi quan nhưng mà thấm đẫm ý thức bi tráng. Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ có nhịp độ chậm, giọng thơ buồn, nhưng vong linh của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng. Quang Dũng và cả đoàn quân Tây Tiến nguyện thề “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” trình bày quyết tâm gắn bó máu thịt với những ngày những nơi nhưng mà đoàn quân đã đi qua. Tây Tiến mùa xuân đó đã trở thành một thời khắc một đi ko trở lại của lịch sử. Lịch sử dân tộc sẽ ko bao giờ lặp lại cái thời mộng mơ, lãng mạn hào hùng tới nhường đó trong hoàn cảnh khó khăn, gian truân, khốc liệt tới tương tự.
Đoạn thơ thứ ba có giọng điệu chủ đạo là trang trọng, trình bày tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của thi sĩ trước sự hy sinh của đồng chí. Đoạn thơ với, cảm hứng lãng mạn, ngòi bút sắc sảo, táo tợn, trên nền hiện thực nghiệt ngã đã chạm khắc chân dung tập thể những người lính Tây tiến đậm chất bi tráng. Quang Dũng qua khổ thơ này đã bộc lộ thâm thúy sự gắn bó, ám ảnh, ghi nhớ hình ảnh về đồng chí những ngày gian truân nơi núi rừng miền tây.
4. Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, bài mẫu số 4:
Theo dòng kí ức, ngược về quá khứ, ta đã bắt gặp ko biết bao nhiêu hồn thơ khiến mỗi chúng ta đắm say mê mẩn như lạc vào toàn cầu đó. Quang dũng cũng là một thi sĩ tương tự. Ông là người tài hoa, vẽ tài hát giỏi, thơ hay. Ông để lại cho đời nhiều bài thơ với những âm hưởng rực rỡ. Tiêu biểu là bài thơ Tây Tiến mang đậm nét hào hùng, bi tráng pha chất lãng mạn nhưng mà ta được học ở chương trình phổ thông. Có thể nói, cả bài thơ là nỗi nhớ về Tây Tiến, về những người đồng chí nhưng nỗi nhớ da diết, lắng đọng nhất lại được thi sĩ tập trung trình bày rõ nhất ở việc khắc họa chân dung người lính Tây Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ ở khổ 3 của bài thơ:
“Tây tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo dài thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Thật vậy, bài thơ Tây Tiến được ra đời trong những năm ko thể nào quên của Quang Dũng. Tây Tiến là một tên một đơn vị quân nhân được thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với lực lượng vũ trang Lào bảo vệ biên giới. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Tại làng Phù Lưu Chanh, với nỗi nhớ Tây Tiến da diết với những năm tháng mưa bom bao đạn ko thể nào quên, ông chắp bút cho ra bài thơ rực rỡ Tây Tiến, in trong tập Mây đầu ô năm 1986. Bài thơ là bức tranh toàn cảnh về tự nhiên hùng vĩ, về quãng thời kì đấu tranh gian truân ngày đêm bên nhau với ý chí, ý thức quật cường. Đặc trưng hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên vừa oai hùng, kiêu ngạo, vừa thơ mộng trữ tình.
Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên vừa chân thực, vừa hào hùng. Nếu ở hai đoạn thơ trước, tự nhiên là nhân vật chính thì ở khổ ba, con người vượt lên để làm điểm nhấn, chất xúc tác xúc cảm cho bài thơ lên tới cao trào.
“Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Đoạn thơ trên làm sống dậy một hình ảnh đoàn binh Tây Tiến gan góc, dũng cảm. Ở họ mang một hào khí đáng ngưỡng mộ. Họ chỉ là những cô cậu sinh viên hà thành mới từ giã mái trường, gia đình lên đường đấu tranh còn biết bao bỡ ngỡ, lạ lùng với những thứ xa lạ, ngô nghê nhưng họ vượt lên trên cảm giác sợ hãi, thay vào đó là sự oai hùng của tuổi xanh, của sự tâm huyết bừng cháy. Thi sĩ dùng “ko mọc tóc” để mô tả đoàn binh. Đó là hình ảnh chiến sĩ rất khác thường. Kế bên việc chọn ngày đêm phải đương đầu với quân địch tàn nhẫn, họ còn phải gồng mình vượt qua tự nhiên khắc nghiệt. Họ sống và đấu tranh nơi rừng thiêng nước độc, nơi sông sâu núi thẳm thiếu ăn, thiếu thuốc, mắc các dịch bệnh sốt rét dẫn tới trọc đầu. Chính thi sĩ Chính Hữu cũng đã từng nói đến tới bệnh này:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi”
Thi sĩ đã lột tả một cách trần truồng sự khắc nghiệt của tự nhiên đã làm cho họ trở thành một cách kì lạ. Đó cũng là một sự thực trần truồng tới khắc khổ của binh đoàn Tây Tiến. Họ có làn da xanh xao vì đói rét nhưng họ vẫn “oai hum” khiến kẻ địch sợ hãi. Đó mới chính là nét đẹp đáng khâm phục của đoàn binh Tây Tiến.
Mặc dù quyết tâm đánh giặc nhưng trong họ vẫn còn tỏa ra chất lãng mạn vốn có của người lính. Họ ko cứng nhắc, khô khan, cũng có những phút giây họ dành cho người thân gia đình. Họ nhớ về quê hương nơi nhưng mà người thân họ vẫn ngày đêm trông mong. Họ nhớ về những bóng vía thân yêu. Hình ảnh “mắt trừng” là mắt quắc lên vẻ dữ tợn nhưng họ gửi mộng đánh thắng quân thù qua biên giới. họ nghĩ tới một viễn cảnh tươi sáng hơn cho gia đình họ.
Phân tích khổ ba bài thơ Tây Tiến mẫu số 4
Có thể thấy Quang Dũng đã khôn khéo khắc họa hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng bi tráng nhưng cũng rất đỗi lãng mạn tình tứ chỉ qua vẻn vẹn bốn câu thơ nhưng thấm đượm nỗi lòng thầm kín của thi sĩ.
Sự hi sinh của người lính Tây Tiến cũng rất bi tráng:
“Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Hình ảnh người lính hi sinh bản thân nơi chiến trường khắc nghiệt thật khiến ta đau xót. Họ hiến dâng bản thân mình cho Tổ quốc, họ ngã xuống nơi chiến trường. Họ nằm lại nơi đất khách quê người, ko một vòng hoa, ko một nén hương tưởng nhớ. Lạnh lẽo, bi thương nhưng trước lúc lên đường cầm súng đấu tranh họ đã xác định ranh giới giữa cái chết với cái sống là quá mỏng manh. Họ chấp nhận điều đó.
Họ mang tuổi xanh, tâm huyết của mình hiến dâng cho quê hương. Tuổi xanh là tuổi đẹp nhất, nhiều ước mơ hoài bão lớn lao đầy hứa hứa nhưng họ chẳng tiếc nhưng mà tận tâm hiến dâng cả sức trẻ cho Tổ quốc. Đó là một sự hi sinh lớn lao, thầm lặng đáng ngợi ca và trân trọng biết bao.
Cái chết của họ cũng rất bi tráng. Hình ảnh chiếc “áo bào” thay “chiếu” khiến ta thấm thía biết bao suy ngẫm. Quang Dũng đã khôn khéo dùng từ Hán việt để cắt bớt sự bi thương cho cái chết oanh liệt đó. Đất Mẹ ôm ấp, vỗ về họ như dang những cách tay dài đón họ vào lòng như những đứa con xa quê hương về với cái ôm đầy tình cảm của người mẹ. Quang Dũng đã mượn luôn âm thanh của tự nhiên như là khúc ca kêu thêm sự đau thương mất mác. Sông Mã gầm lên bi ai. Câu thơ đó mang âm hưởng dữ dội như cào vào lòng người những vết xước sâu ko thể nào quên đi được nhưng nó cũng mang âm hưởng bi tráng làm cho sự hi sinh của người lính ko hề bi quan chút nào. Tây Tiến mùa xuân đó như khúc ca còn vang mãi trong lòng mỗi người.
Tóm lại, đoạn thơ thứ ba rực rỡ nhất của bài thơ có giọng điệu trang trọng trình bày tình cảm của thi sĩ một cách thâm thúy. Đặc trưng với những hình ảnh thơ thấm đẫm kỉ niệm nhưng mà thi sĩ hồi ức lại man mác buồn nhưng thấm đẫm bi tráng hào hùng. Thi sĩ khôn khéo sử dụng từ Hán Việt khiến đoạn thơ nghiêm trang lên nhiều hơn. Qua những thủ pháp nghệ thuật rực rỡ, Quang Dũng đã vẽ ra bức tranh về đoàn binh Tây Tiến. Họ uy nghiêm, lẫm liệt yêu nước nồng nàn nhưng cũng rất lãng mạn. Đây là đoạn thơ thâm thúy đúc kết cả cái tình, cái thần cho toàn bài, là điểm nhấn nổi trội nhưng mà ta ko thể nào quên.
5. Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, bài mẫu số 5:
Cả bài thơ là nỗi nhớ dạt dào về Tây Tiến, với những kỉ niệm một thời. những trắc trở trong cuộc sống và đấu tranh. cũng như những giờ phút yên bình bên người dân Tây Bắc. Bài thơ còn mô tả rất thực về hình ảnh của người lính. Về ý thức và những phẩm chất tốt đẹp của họ.
Tây Tiến đoàn quân ko mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Môt đoạn thơ khắc họa rõ về những chàng trai Tây Tiến và hình ảnh tả thực gợi lên trong lòng người đọc nhiều niềm thương cảm và cả ngưỡng mộ.
Đoạn được mở đầu bằng lời mô tả thẳng ko chút tránh né sự thực.
Tây Tiến đoàn quân ko mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Cuộc sống chốn rừng núi Tây Bắc thiếu thốn vô cùng. Quân đấu tranh ko đủ ăn, mặc ko đủ ấm. Để đấu tranh họ phải cạo trọc đầu tạo thành đoàn “vệ trọc” “vệ đỏ” để quân địch ko thể nắm được họ. Nhưng nguyên nhân khác là những cơn sốt rét rừng vô cùng nguy hiểm, cứ dọa nạt, rình rập, sẵn sàng lấy đi tính mệnh của họ bất kỳ lúc nào.
Trong bài “đồng chí” chính hữu cũng đã có nói đến tới những trắc trở và căn bệnh này
Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá
Mồm cười buốt giá, chân ko dày
….
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Hướng dẫn Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của thi sĩ Quang Dũng
Căn bệnh này thì bất kỳ người lính nào cũng gặp nhưng tới với bài Tây Tiến ta những người chưa chứng kiến mới có thể hiểu được một cách chân thực nhất. Đó là sự thực ko phải là nói quá hay là nói để tạo ấn tượng. thật thú vị vì thi sĩ lấy chính cái hiện thực khổ khốc liệt để trở thành niềm tự hào tự tốn cho mình. Đó là cái tên khác của Tây Tiến: “đoàn quân ko mọc tóc.” Cũng như Phạm Tiến Duật gọi đoàn xe ko kính của mình. Đó là một cách gọi dí dỏm trình bày sự sáng sủa và chất lính. Câu tiếp theo chia làm hai vế quân xanh màu lá/ dữ oai hùm. Màu xanh là màu xanh của lá ngụy trang hay chính là màu xanh da thịt của người lính cho quá vất vả và chịu đựng căn bệnh làm da nhợt nhạt ko sức sống.
Như Tố Hữu cũng nói:
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
Đâu còn tươi nữa những ngày qua.
Cả đoàn quân sao nhưng mà yếu ớt nhưng không những thế là cả một khí thế uy phong. Cái bi đặt bên cái tráng làm nổi trội cái uy phong của đoàn quân. Ba tiếng “dữ oai hùm” tạo nên âm hưởng mạnh mẽ hùng tráng cho câu thơ. Người đọc cảm nhận khí thế của đoàn quân ra trận, dù yếu nhưng đã đánh cho Pháp phải sợ hãi.
Dù cuộc sống có khó khăn nhưng những người lính Tây Tiến vẫn mang trong mình lắm mộng mơ, và khát vọng hoài bão.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Hai câu mang hai chữ “mộng” và “mơ”. Từ trừng được dùng khá rực rỡ, nó cho thấy bao tâm nguyện, khát vọng hoài bão tự đáy lòng đều gửi cả ở ánh mắt. “Mắt trừng” ko phải chỉ hành động mạnh nhìn trừng trừng dữ dằn, dọa nạt nhưng mà là cái nhìn đau đáu, khôn nguôi trình bày những mong ước tới khắc khoải, mong ước về một ngày thắng lợi quân địch. Chữ “mộng” khiến câu thơ chùng xuống ẩn chứa xúc cảm bâng khuâng. Câu thơ của Quang Dũng khiến ta nhớ tới một câu thơ của Nguyễn Đình Thi:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng phấp phỏng nhớ mắt người yêu.
Nhớ “người yêu” hay nhớ “dáng kiều thơm” làm hình ảnh người lính trở thành thân thiện hơn rất nhiều. Vì nỗi nhớ rất đỗi tầm thường của những chàng thanh niên, nhưng trong lúc khó khăn cũng thật cao quý. Nỗi nhớ và những mộng mơ giúp tiếp thêm sức mạnh và nghị lực để vượt lên hoàn cảnh. Để vượt qua thiếu thốn vật chất, những con đau dằn xé. Để ko gục bởi hoàn cảnh trứơc lúc gục trước quân địch. Quang Dũng đã viết nên bốn câu thơ đầu với cái nhìn đa chiều, phong phú. Để ta thấy đằng sau phong thái kiêu hùng cũng có một tâm hồn trẻ và tài hoa.
Hai câu thơ tiếp theo là sự tiếp nối của sự đấu tranh giành độc lập tự do. Đó là sự hy sinh:
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Nếu ta chỉ đọc câu thơ đầu thì ko thể ko xúc động trước cái hiện thực quá đỗi bi thương. Cả một đoàn quân đang đi trên tuyến đường dài thì thỉnh thoảng có một người ở lại sau lưng. Bên đường lại mọc lên một nấm mồ. Giữa rừng núi, ko một nén hương, ko nước mắt người thân. Những cái chết cô độc giữa rừng lạnh lẽo, bi thương, nhưng câu thơ sau như một lực kéo vô hình nâng câu đầu lên để kéo cái bi thương thành cái bi tráng. Câu thơ thứ hai chính là câu hát đầu thử thách ngạo nghễ của các chàng trai. Biết đi là hy sinh đó nhưng một lúc đã đi thì ko quay đầu trở lại. Dù có hy sinh cũng là sự hy sinh xứng đáng. Nói ko tiếc thì cũng ko thể vì họ là thanh niên còn nhiều cái chưa làm được, nhưng đây là hiến dâng phần còn lại của cuộc đời cho tổ quốc nên ko tiếc nữa. Như anh lính trong dáng đứng Việt Nam
Và anh chết trong lúc đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Những sự hy sinh lớn lao. dù ta ko thể biết người nào đã hy sinh nhưng Nguyễn Khoa Điềm của từng khẳng định “ko người nào nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm nên quốc gia.” Một lúc xác định được lý tưởng những người lính xem cái chết mình nhẹ tựa lông hồng.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cuộc sống thiếu thốn tới nỗi ko có mảnh chiếu che thân nhưng với Quang Dũng mảnh áo kia chính là “áo bào” như những chiến tướng của ngày xưa. Một cái chết hào hùng và sang trọng vì là chết cho quốc gia. Đất đã sinh ra anh và lại đón nhận anh trở về lúc đã làm xong nghĩa vụ thiêng liêng của anh. Anh ra đi ko mang theo tiếng khóc của đồng chí nhưng tiếng gầm của sông Mã đã tiễn anh ra đi. Cả quê hương quốc gia như đang tiếc thương đưa anh về đất. Vẫn là cái chết nhưng lại hào hùng, ko bi quan nhưng mà bi tráng. Đây là điểm nhấn xuyên suốt bài thơ. Là cái rực rỡ của Quang Dũng. Nhưng lúc bài thơ ra đời nhiều người ko hiểu được. Họ coi việc nói thực là cái chết là kể lể, yếu mềm theo kiểu tiểu tư sản. nhưng họ chưa hiểu được sâu là đằng sau cái chết là cái hào hùng. Cái chết chỉ là cái nên cho sự vinh quang.
Ở đây sông Mã một lần nữa được nhắc lại lúc nói tới Tây Tiến. Điều đó khẳng định sự hy sinh và ra đi của các anh đã đi vào bất tử lúc thể xác hòa vào cỏ cây và vào đất mẹ thiêng liêng.
Đoạn thơ đã tạo nên được khí thế của đoàn quân. Những người lính với ý chí kiên cường, nghị lực và những ước mơ. Họ đã ra đi, đấu tranh và hy sinh. Họ đã bảo vệ tổ quốc ko tiếc đời mình. Quang Dũng là trình bày được điều đó bằng văn pháp tả thực và cả lãng mạn. Thi sĩ bộc lộ được ý thức của một chiến sĩ Cụ Hồ thời chống Pháp.
“Đoàn vệ quốc quân một lòng ra đi
Nào có xá chi đâu ngày trở về.”
—————– HẾT ——————
Trên đây là 5 bài mẫu phân tích khổ 3 của bài Tây Tiến nhưng mà Taimienphi.vn sưu tầm, tổng hợp được. Kỳ vọng với những gợi ý trong bài viết này, các em sẽ hiểu, cảm nhận rõ hơn cách làm bài văn phân tích à thấy được hình tượng những người lính Tây Tiến can trường, hào hoa, lãng mạn, bi quan nhưng mà ko bị lụy.
Ngoài ra, để học tốt môn Ngữ văn lớp 12, các em học trò có thể tham khảo thêm các bài văn hay, tuyển chọn khác như Soạn bài Bên kia sông Đuống, Phân tích bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Soạn bài Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học, Phân tích bài thơ Việt Bắc,…
https://thuthuat.taimienphi.vn/phan-tich-kho-3-bai-tho-tay-tien-cua-quang-dung-37975n
Xem thêm nhiều bài viết hay về Hỏi Đáp Văn Học
Bạn thấy bài viết Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng bên dưới để duhocnhanduc.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trung Tâm Du Học Nhân Đức
Phân mục: Văn học
#Phân #tích #khổ #bài #thơ #Tây #Tiến #của #Quang #Dũng
Bạn thấy bài viết Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng bên dưới để Trung Tâm Du Học Nhân Đức có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: duhocnhanduc.edu.vn của Trung Tâm Du Học Nhân Đức
Nhớ để nguồn: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng